Dự Hội nghị có Bộ trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Kim Sơn;
Bí thư Tỉnh uỷ Nam Định Phạm Gia Túc; Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung
ương Vũ Thanh Mai; Phó Chủ nhiệm ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội
Đặng Xuân Phương; Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Y Thông; Thứ
trưởng Bộ GDĐT Hoàng Minh Sơn.
Cùng
dự có lãnh đạo UBND các tỉnh, các Sở GDĐT, Phòng Giáo dục các quận,
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc các tỉnh, thành phố trong địa bàn
vùng Đồng bằng sông Hồng và Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục đại học trong
vùng.
Dẫn đầu trong 6 vùng kinh tế - xã hội về hầu hết các chỉ số giáo dục và đào tạo
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhìn nhận: Thời gian qua, giáo dục và đào tạo của vùng Đông bằng sông Hồng đã
đạt được những kết quả quan trọng, đáng ghi nhận nhờ sự lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy, chính quyền, sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ giáo viên
và cán bộ quản lý giáo dục, sự quan tâm của toàn xã hội.
Quang cảnh Hội nghị
Tuy nhiên, giáo
dục của vùng vẫn còn những tồn tại, hạn chế và khó khăn, thách thức.
Với việc tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng
sông Hồng, Bộ trưởng cho biết: Bộ GDĐT mong muốn sẽ cùng với các địa phương thảo luận, nhận diện bức tranh giáo dục vùng đồng bằng Sông Hồng; trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về những việc đã làm được trong thời gian qua và trên cơ sở đó đề ra các giải pháp để tiếp tục phát triển giáo dục vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
“Các địa phương đã quan tâm thì từ Hội nghị này tiếp tục quan tâm hơn. Các Bộ, ngành sẽ tăng cường sự thấu hiểu, đồng hành và hỗ trợ để các địa phương thực hiện thành công các mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo của địa phương và của cả vùng”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Báo
cáo tình hình phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Hồng
giai đoạn 2011-2022 và nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục và đào
tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho
biết: Năm học 2022-2023, toàn vùng Đồng bằng sông Hồng có 11.440 cơ sở
giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên.
Tỷ
lệ huy động trẻ em, học sinh đi học đúng độ tuổi ở cấp học của vùng đều
gia tăng và đứng đầu cả nước. Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ đạt 39,9% (cao
hơn 14,5% so với bình quân cả nước). Tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo đạt
98,6% (cao hơn 6,2% so với bình quân cả nước). Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi
các cấp học phổ thông lần lượt là 99,9% đối với cấp Tiểu học; 98,7% đối
với cấp THCS và 92,9% đối với cấp THPT.
Công
tác phổ cập giáo dục mầm non, phổ thông và xóa mù chữ được củng cố và
nâng cao. Toàn vùng có 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện, xã duy trì phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 100% các tỉnh, thành phố duy trì và
đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học (trong đó có 9 tỉnh, thành phố đạt
chuẩn phổ cập tiểu học mức độ 3); 88,3% tỷ lệ đơn vị cấp huyện đạt chuẩn
phổ cập giáo dục THCS mức độ 3. 4 địa phương đầu tiên trong toàn quốc
hoàn thành phổ cập trung học phổ thông cấp độ 3 đều thuộc vùng Đồng bằng
sông Hồng.
Không
chỉ nổi bật ở chất lượng giáo dục đại trà, Đồng bằng sông Hồng còn giàu
truyền thống về giáo dục mũi nhọn và giáo dục năng khiếu. Tại Kỳ thi
học sinh giỏi quốc gia năm 2023, 6/11 tỉnh trong vùng và Đại học Quốc
gia Hà Nội nằm trong tốp 10 địa phương, đơn vị có nhiều giải học sinh
giỏi quốc gia và nhiều giải Nhất học sinh giỏi quốc gia nhất cả nước.
Năm
2022, toàn vùng có 18 học sinh đạt giải Olympic khu vực, quốc tế và Kỳ
thi Khoa học kỹ thuật quốc tế (chiếm 54,5% tổng sô thí sinh đạt giải).
Năm 2023 đây tiếp tục là vùng có số học sinh được lựa chọn tham gia các
đội tuyển tham dự Olympic quốc tế nhiều nhất cả nước.
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn trình bày báo cáo tại Hội nghị
Giáo
dục đại học của vùng ngày càng khẳng định là trung tâm đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao của cả nước. Toàn vùng hiện có 109 cơ sở giáo
dục đại học và gần 600 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Nhiều cơ sở giáo dục
đại học đã được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy
tín quốc tế. Số lượng sinh viên đại học đứng đầu cả nước. Công tác
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ đã đạt được nhiều kết quả
tích cực, sản phẩm nghiên cứu ứng dụng ngày càng tăng về số lượng và
chất lượng.
Nhiều
thuận lợi, nhiều kết quả nhưng giáo dục Đồng bằng sông Hồng cũng đang
đối diện với không ít khó khăn. Sự phát triển nóng về kinh tế, cùng với
tốc độ đô thị hoá, tăng dân số cơ học nhanh hàng đầu cả nước đã làm cho
các vấn đề xã hội, trong đó có giáo dục dù được quan tâm vẫn đang chậm
hơn so với sự phát triển. Thiếu trường, thiếu lớp; thiếu giáo viên đang
đang đặt ra cho Đồng bằng sông Hồng thách thức để giữ vững và nâng cao
hơn nữa chất lượng giáo dục.
Bên
cạnh đó, chất lượng lao động của vùng Đồng bằng sông Hồng mặc dù cao
hơn so với mặt bằng chung của cả nước song vẫn còn thấp so với yêu cầu
của một vùng kinh tế phát triển khi mà vẫn còn gần 2/3 lực lượng lao
động chưa qua đào tạo hoặc không có bằng cấp/chứng chỉ.
Nghị
quyết số 30 của Bộ Chính trị xác định mục tiêu: Đến năm 2030, đồng bằng
Sông Hồng trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao
của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng
tạo, kinh tế số, xã hội số. Tầm nhìn 2045, đồng bằng Sông Hồng trở thành
trung tâm hàng đầu của cả nước về văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học
- công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Để
triển khai thực hiện được các mục tiêu trên, các nhiệm vụ trọng tâm
được xác định cho giáo dục Đồng bằng sông Hồng là tập trung vào quy
hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo; bảo đảm công bằng trong tiếp
cận giáo dục; các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo; nâng
cao chất lượng giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường
xuyên; nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác, kết nối và
liên kết vùng nhằm phát triển giáo dục và đào tạo; xây dựng, ban hành
và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển
giáo dục và đào tạo.
Cần tập trung xây dựng các mô hình giáo dục phổ thông bắt kịp với khu vực
Tại
Hội nghị, đại diện các địa phương, ngành Giáo dục, cơ sở giáo dục đại
học vùng Đồng bằng sông Hồng chia sẻ kết quả giáo dục đạt được, nhận
diện khó khăn, thách thức; đưa đề xuất và trao đổi giải pháp phát triển
giáo dục và đào tạo Đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
Bộ
trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Kim Sơn, Bí thư Tỉnh uỷ Nam Định Phạm Gia
Túc, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Thanh Mai, Phó Chủ nhiệm ủy
ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Đặng Xuân Phương, Thứ trưởng Bộ GDĐT
Hoàng Minh Sơn chủ trì thảo luận
Đánh
giá trong giáo dục và đào tạo, vùng Đồng bằng sông Hồng là dẫn đầu cả
nước với nhiều kết quả tích cực, GS.TS Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đưa ra minh chứng cụ thể, trong đó có 2
con số nhận diện, đó là: kết quả thi tốt nghiệp THPT (chất lượng đào tạo
đại trà) và kết quả thi học sinh giỏi quốc gia (đào tạo mũi nhọn) luôn
chiếm ưu thế trong top 10 cả nước.
Một
số thách thức giáo dục và đào tạo vùng đang đối mặt cũng được GS.TS
Nguyễn Văn Minh chỉ ra. Trong đó có việc, dù tập trung hầu hết cơ sở
giáo dục đại học lớn, nhưng chưa có sự kết nối đa chiều trong đào tạo
nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội cho vùng.
Rất
nhiều trường phổ thông ở các tỉnh/thành đạt “trường chuẩn”, có kết quả
tốt, nhưng chưa có các hình mẫu điền hình, nhất là trong thời kỳ triển
khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Rất nhiều khu công nghiệp ra
đời, nhưng kèm theo đó là sự dịch chuyển cơ học về dân số, đặt ra yêu
cầu về trường lớp, không gian hoạt động, đời sống văn hóa, tinh thần
đang gặp không ít khó khăn, rộng hơn là dân trí, giáo dục môi trường.
GS.TS
Nguyễn Văn Minh cho rằng cần tập trung xây dựng các mô hình giáo dục
phổ thông bắt kịp với khu vực. Trong đó, ngoài chất lượng mũi nhọn, cần
tính đến phân luồng, hướng nghiệp, nhằm vào nhân lực có chất lượng đáp
ứng cho công nghệ cao; giảm thiểu cung ứng lao động phổ thông thuần túy.
Đồng thời, bảo đảm đội ngũ về số lượng, cơ cấu, nhất là đội ngũ đáp ứng
triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018; bảo đảm thu nhập giáo
viên tương ứng với thu nhập vùng…
Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Văn Minh trao đổi tại Hội nghị
Chia
sẻ kết quả, thuận lợi, thách thức của giáo dục địa phương, ông Nguyễn
Văn Phê, Giám đốc Sở GDĐT Hưng Yên kiến nghị sớm ban hành “Chiến lược
phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2030, tầm nhìn đến năm 2045” để
địa phương có căn cứ trong việc định hướng chiến lược phát triển giáo
dục của địa phương. Ưu tiên đầu tư xây dựng trường lớp theo hướng đạt
chuẩn quốc gia, giữ vững kết quả phổ cập giáo dục.
Giám
đốc Sở GDĐT Hưng Yên đồng thời cho rằng, cần phát huy vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu trong xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch…
Thực hiện hiệu quả đổi mới quản lý giáo dục, bảo đảm tính dân chủ, thống
nhất, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm; coi trọng quản lý chất
lượng, nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục
trong quản lý, điều hành, thực hiện nhiệm vụ. Tăng cường đầu tư, phát
triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Song song với đầu tư từ
ngân sách nhà nước, khuyến khích huy động mọi nguồn lực để phát triển
giáo dục và đào tạo.
Với
các địa phương trong vùng, theo ông Nguyễn Văn Phê, cần tăng cường phối
hợp, chia sẻ các kinh nghiệm, bài học, cách làm hay trong phát triển
giáo dục ở mầm non, phổ thông. Hợp tác quy hoạch theo vùng trong quy
hoạch các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học tránh đầu tư dàn
trải lãng phí thiếu hiệu quả.
Từ
thực tiễn giáo dục Hà Nam, Giám đốc Sở GDĐT Phạm Anh Tuấn đề nghị, cần
sớm có chỉ đạo điều chỉnh chính sách đối với việc thực hiện công tác
phát triển ngành GDĐT nhằm hướng dẫn các chế tài về chế độ chính sách
đảm bảo kịp thời, đúng quy định, hạn chế những sai phạm đáng tiếc. Việc
thực hiện tinh giản biên chế phải tính đến đặc thù của ngành Giáo dục,
đảm bảo định biên giáo viên trên lớp, không thực hiện cắt giảm biên chế
theo tỷ lệ chung đối với ngành Giáo dục.
Ông
Nguyễn Viết Hiển, Giám đốc Sở GDĐT Thái Bình thì đề nghị Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, các bộ, ban, ngành quan tâm hỗ trợ địa phương đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Thách thức vượt qua chính mình trong giáo dục và đào tạo
Phát
biểu kết luận Hội nghị, bên cạnh ghi nhận những kết quả, thành tựu to
lớn của giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Hồng, Bộ trưởng Nguyễn
Kim Sơn dành nhiều thời gian đề cập tới những thách thức trong phát
triển giáo dục và đào tạo của vùng xuất phát từ chính vị trí cao và
những thành tựu trong hiện tại.
Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn phát biểu tại Hội nghị
Thách
thức đầu tiên, theo Bộ trưởng là thách thức “vượt qua chính mình trong
giáo dục và đào tạo”. “Nếu từ vị trí thấp khi giải quyết được những vấn
đề thấp sẽ lên cao, nhưng khi đạt được kết qủa tốt thì việc đổi mới nữa,
tăng trưởng nữa sẽ là thách thức. Thách thức vượt lên chính mình”, Bộ
trưởng lý giải, đồng thời cho rằng, những gì là kinh nghiệm có thể sẽ là
rào cản, níu kéo và tạo nên sức ỳ khi thực hiện đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo.
Ở
vị trí “người dẫn đầu” trong giáo dục cũng đặt ra cái khó cho Đồng bằng
sông Hồng khi phải giải quyết nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất
lượng cao và cả cung cấp nhân tài cho sự phát triển của vùng.
Với
một vùng đất hiếu học, quan tâm tới sự học, giáo dục luôn nhận được
quan tâm hàng đầu như Đồng bằng sông Hồng, theo Bộ trưởng, đây cũng là
áp lực. Thách thức cho giáo dục của vùng còn đến từ đặc điểm tập trung
dân cư cao với đòi hỏi cao về giáo dục. Nếu một số vùng khác quan tâm
tới chỗ học thì Đồng bằng sông Hồng không chỉ dừng lại ở việc đến trường
có chỗ học mà là học với chất lượng cao, đòi hỏi cao.
Chỉ
ra những hạn chế, tồn tại xuất phát từ nhu cầu học tập cao, sự quan tâm
lớn với giáo dục, Bộ trưởng nhắc tới vấn đề thiếu trường, thiếu lớp,
thiếu giáo viên; chọn trường, chọn lớp; dạy thêm, học thêm; áp lực thái
quá cho học sinh; bệnh thành tích trong giáo dục;…
“Nếu
ở vùng khác phải huy động trẻ đến trường thì ở đây phụ huynh phải xếp
hàng để mua hồ sơ. Đó là câu chuyện phía sau của “tấm huân chương”. Chia
sẻ điều này, Bộ trưởng nhấn mạnh một số vấn đề cần ưu tiên xử lý ngay
của giáo dục vùng Đồng bằng sông Hồng để tiếp tục là mẫu mực và mẫu mực
trên một tầm vóc mới của giáo dục. Trong đó, lưu ý các từ khoá: Hiện đại
hoá, chuẩn hoá, hợp lý hoá, xã hội hoá, quốc tế hoá, số hoá, văn hoá
hoá.
Nhấn
mạnh cần đặt trọng tâm hiện đại hoá giáo dục và thực hiện chương trình
giáo dục phổ thông 2018 là con đường quan trọng để hiện đại hoá, Bộ
trưởng nhắc tới hiện đại hoá về cơ sở vật chất trường lớp, trong đó, cản
trở đối với vùng Đồng bằng sông Hồng là “không phải không có nhưng cũ”
và cái cũ đang cản trở khá nhiều khi “đập đi không xong, xây mới chưa
được”; “làm thế nào để dũng cảm đập đi làm lại”.
Nhận
định triển khai chương trình mới - một chương trình để hiện đại hóa,
quốc tế hóa giáo dục - như cuộc cách mạng lớn, không thể trong một sớm,
một chiều thực hiện được mục tiêu, Bộ trưởng cho rằng, cần cố gắng thực
hiện những gì là “lõi”, căn cốt trước. Trong đó có đổi mới phương pháp
dạy - học, đổi mới tư duy giảng dạy của đội ngũ nhà giáo; tận dụng tốt
quyền chủ động được trao cho nhà trường, tổ chuyên môn, giáo viên.
“Những năm đầu triển khai chương trình mới cho thấy, học sinh đã chủ
động, năng động hơn. Đây chính là con đường hiện đại hóa giáo dục phổ
thông muốn đạt được”, Bộ trưởng chia sẻ.
Ở
khía cạnh hợp lý hoá, Bộ trưởng cho rằng, vùng Đồng bằng sông Hồng cần
đẩy mạnh sắp xếp quy hoạch mạng lưới, từ sắp xếp hệ thống giáo dục phổ
thông, đến liên cấp và hệ thống các trường đại học, cao đẳng.
“Chuẩn
hoá” cũng là từ khoá được Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đề cập với giáo dục
Đồng bằng sông Hồng. Theo Bộ trưởng, so với cả nước, tỷ lệ trường chuẩn
của vùng đạt cao rồi nhưng phải vươn lên chuẩn cao hơn, dần đạt được các
chuẩn mang tính quốc tế, nhất là ở các địa phương có điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội như Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng…
Từ
yêu cầu đẩy mạnh xã hội hoá để người học có nhiều cơ hội hơn, chia sẻ
nhiều hơn cho hệ thống công lập, Bộ trưởng cho rằng, các địa phương
trong vùng cần tiếp tục huy động các nguồn lực cho phát triển giáo dục
và đào tạo. Đối với xã hội hoá giáo dục, các địa phương vừa tăng cường
quản lý nhà nước, vừa tăng cường hỗ trợ cho hệ thống giáo dục ngoài công
lập, để hệ thống này phát huy được, thể hiện được vai trò của mình.
Đối
với tăng cường số hoá, Bộ trưởng nhấn mạnh: Toàn ngành đang đặt trọng
tâm là chuyển đổi số, xây dựng và sử dụng cơ sở dữ liệu của ngành vào
công tác quản lý; chuyển đổi số trong chuyên môn, quản trị, dạy và học
ngày càng đòi hỏi đạt đến chiều sâu hơn. “Đây vừa là cơ hội, vừa là
thách thức, trong đó cần nhất là những biết quản lý, biết dùng và cần
dùng”.
Với
từ khóa “văn hóa hóa”, theo Bộ trưởng đây là nội dung quan trọng cần
phải làm. Cụ thể, cùng với giáo dục văn hóa cho học sinh thì từng nhà
trường, nhà giáo, học sinh phải làm việc nữa là “văn hóa hóa giáo dục”,
để tố chất văn hóa của giáo dục ngày càng sâu đậm, mẫu mực. Tập trung
thực hiện tốt xây dựng văn hoá học đường; trong đó kỷ cương học đường,
thái độ, ứng xử của người dạy, người học là trọng tâm. Việc làm sâu sắc
các tố chất của văn hóa học đường giống như kháng thể, giúp lấn át các
biểu hiện tiêu cực khác.
Bộ
trưởng cũng nhấn mạnh tới một số nhiệm vụ cụ thể khác như chuẩn bị kỹ
lưỡng cho Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023; phát huy lợi thế của một vùng
tập trung caop và đa đạng các trường đại học, trong đó có những trường
đại học hàng đầu để giải bài toán nhân lực và tạo con đường xây dựng xã
hội học tập cho vùng đất hiếu học, thích học và học có chất lượng nhất
cả nước.
Vùng
Đồng bằng sông Hồng bao gồm 2 thành phố trực thuộc trung ương là Hà
Nội, Hải Phòng và 9 tỉnh: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương,
Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Đây là vùng có vai
trò, vị trí chiến lược, quan trọng bậc nhất của cả nước về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; là trung tâm
hàng đầu về y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ với đội ngũ
trí thức giỏi và lực lượng lao động có chất lượng cao.