Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945 (Ảnh: TTXVN)
Tháng Tám 1945, chớp thời cơ “ngàn năm có một,” dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân ta không phân biệt giàu
nghèo, giai tầng, không phân biệt tôn giáo, xu hướng chính trị vùng lên
tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất” giành chính quyền
trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên cho đất nước.
Nhân dịp kỷ niệm 77 năm sự kiện trọng đại này, Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Cách mạng Tháng Tám
1945-Biểu tượng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc” của Thiếu tá,
Tiến sỹ Trần Hữu Huy-Viện Lịch sử quân sự (Bộ Quốc phòng).
Đường lối đại đoàn kết dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Triều đình phong
kiến nhà Nguyễn rơi vào khủng hoảng và bất lực, chịu thất bại rồi đi đến
đầu hàng (ký Hiệp ước Giáp Thân 1884), chấp nhận làm tay sai cho giặc.
Từ đó, để phục vụ mục đích nô dịch thuộc địa và bóc lột lâu dài, thực
dân Pháp thi hành chính sách “chia để trị” hết sức thâm độc. Nhân dân
sống trong cảnh “nước mất, nhà tan,” cuộc đời lầm than cơ cực.
Dù những cuộc đấu tranh anh dũng của bao thế hệ người Việt vẫn liên
tục diễn ra, tiêu biểu như phong trào Cần Vương (cuối thể kỷ XIX), khởi
nghĩa nông dân (cuối thể kỷ XIX, đầu thể kỷ XX), phong trào dân tộc theo
khuynh hướng dân chủ tư sản (đầu thể kỷ XX)... nhưng đều bị kẻ thù “dìm
trong biển máu.”
Một trong những nguyên nhân căn bản nhất dẫn tới sự thất bại đó là
các phong trào yêu nước chưa phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân do thiếu cơ sở lý luận, thiếu phương tiện và sách lược phù hợp.
Trải qua một quá trình tích cực vận động, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản
Việt Nam-chính đảng của giai cấp vô sản (công nhân) được thành lập
(tháng 10/1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương), khẳng định con
đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là con đường kết hợp và
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (“chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”).
Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
đường lối đại đoàn kết dân tộc rất đúng đắn, đó là Đảng chủ trương tập
hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh
đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo, xây dựng liên minh công nông vững chắc;
đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.
Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa
rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng... thì phải đánh đổ”.
Chủ trương, đường lối cách mạng khoa học, đúng đắn đó là tiền đề quan
trọng nhất dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sau khi ra đời, căn cứ vào bối cảnh thế giới, tình hình trong nước ở mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau, Đảng tiếp tục có sự chuyển hướng về chỉ
đạo chiến lược và sách lược nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong
một mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo đó, công tác vận động và tổ chức quần chúng có nhiều hình thức
đổi mới sáng tạo, như việc thành lập: Hội Phản đế Đồng minh
(11/1930-3/1935), Hội Phản đế Liên minh (3/1935-10/1936), Mặt trận Thống
nhất nhân dân phản đế Đông Dương (10/1936-3/1938), Mặt trận Dân chủ
Đông Dương (3/1938-11/1940), Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế
(11/1940-5/1941), Mặt trận Việt Minh (từ tháng 5/1941). Qua đó, Đảng đã
xây dựng, giáo dục được một đội quân chính trị hàng triệu người, sức
mạnh đại đoàn kết không ngừng được củng cố, tăng cường.
Đại
tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chung vui cùng các chiến sĩ trong lễ
mừng chiến thắng, tổ chức tại Sở chỉ huy ở Mường Phăng trong chiến dịch
Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. (Ảnh: TTXVN)
Đặc biệt, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (từ
10-19/5/1941) họp tại Pác Bó (Cao Bằng), do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ
trì tiếp tục khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng, quyết định giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng trong phạm vi
từng nước Đông Dương.
Mỗi nước Đông Dương thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Ở
Việt Nam sẽ thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt Mặt
trận Việt Minh), gồm các tổ chức quần chúng lấy tên “hội cứu quốc.”
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức ra đời. Tháng 10/1941, Mặt
trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ, khẳng định
chủ trương “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn
giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến
đấu để đánh đuổi Pháp-Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở.”
Sau khi thành lập, Mặt trận Việt Minh triển khai đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phát triển cả về tổ chức và lực lượng, hình thành hệ thống
từ trung ương đến cơ sở.
Đến giữa năm 1945, Việt Minh đã có khoảng 5 triệu hội viên. Đến đây,
khối đại đoàn kết được mở rộng, từng bước phát triển lên mức cao nhất,
sẵn sàng phát huy sức mạnh vĩ đại vùng lên giành chính quyền khi thời cơ
chín muồi!
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết, tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi
Đầu năm 1945, cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi đến giai
đoạn kết thúc. Chủ nghĩa phátxít đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn
toàn. Trong tình thế khó khăn đó, phátxít Nhật tiến hành cuộc đảo chính
lật đổ Pháp (9/3/1945) để độc chiếm Đông Dương.
Phong
trào Thanh niên "Ba sẵn sàng" của Thái Bình: Người lên đường chiến đấu,
người ở lại hậu phương thi đua sản xuất dưới bom đạn, (tháng 8/1964),
sau khi Mỹ mở rộng đánh phá bằng không quân ra miền Bắc trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp
mở rộng tại Đình Bảng (Bắc Ninh), ra chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” (12/3/1945), xác định rõ kẻ thù cụ thể trước mắt duy
nhất của nhân dân Đông Dương lúc này là phátxít Nhật.
Hội nghị quyết định phát động một cao trào “Kháng Nhật cứu nước”
mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Phong trào đấu tranh vũ
trang và các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp diễn ra ở nhiều địa
phương, đẩy quân Nhật và chính quyền tay sai rơi vào khủng hoảng trầm
trọng.
Ngày 13/8/1945, Chính phủ Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng các nước
Đồng minh không điều kiện. Tin tức đầu hàng nhanh chóng lan đi khắp các
mặt trận. Quân đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương bị tê liệt, mất tinh
thần chiến đấu, chính phủ tay sai bù nhìn hoang mang cực độ.
Không khí cách mạng sục sôi trong cả nước. Theo sự thỏa thuận của
các nước Đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân
quốc) sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh-Pháp sẽ vào miền Nam
Việt Nam (lấy vĩ tuyến 16 phân chia) làm nhiệm vụ giải giáp quân đội
Nhật, nhưng thực chất đều muốn thực hiện ý định tiêu diệt lực lượng cách
mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền tay sai phục vụ
mưu đồ cai trị.
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng triệu tập Hội nghị
toàn quốc (từ 13-15/8/1945) họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định
thời cơ đã đến, quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước trước khi quân Đồng minh vào.
Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để kịp
thời chỉ đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương. Ngay sau
đó, Đại hội quốc dân cũng họp ở Tân Trào (ngày 16/8/1945), bao gồm đại
biểu của ba xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) đại diện cho các giới, các
đoàn thể, các dân tộc, tiêu biểu cho ý chí và nguyên vọng toàn dân.
Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa, bầu Ủy ban dân
tộc giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu, thông qua một số chính sách quan trọng của Mặt trận Việt Minh.
Hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa, nhân dân cả nước với khí thế sục sôi
đồng loạt nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19/8/1945, Tổng khởi nghĩa
thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, Thừa Thiên-Huế giành được chính quyền.
Ngày 25/8, nhân dân Sài Gòn-Gia Định giành được chính quyền... Sức mạnh
vùng dậy "long trời, lở đất” của hàng triệu quần chúng, tạo nên một ưu
thế áp đảo, giáng đòn quyết định vào tất cả cơ quan đầu não của chính
quyền bù nhìn, làm tê liệt mọi sự kháng cự của các thế lực thù địch,
khiến chúng không kịp trở tay.
Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng Tháng Tám đã thành
công rực rỡ trong cả nước vào ngày 28/8/1945. Ngày 30/8/1945, Bảo Đại-vị
vua cuối cùng của triều Nguyễn tuyên bố thoái vị, trao ấn vàng, kiếm
nạm ngọc lại cho đại diện Việt Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, chính quyền cả nước thuộc về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn
đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc
bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong giờ phút thiêng liêng trọng đại ấy, Người tiếp tục khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc là nhân tố nền tảng để bảo vệ thành quả cách mạng vĩ đại vừa giành
được: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập ấy.”
Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 thực sự là biểu tượng cho sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân. Sức mạnh đó trước hết bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu
nước nồng nàn của mỗi con dân đất Việt, được bồi dưỡng trao truyền qua
hàng ngàn năm lịch sử, tiếp tục được nhân lên và phát huy cao độ bởi
đường lối cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của Đảng.
Trên cơ sở thắng lợi vĩ đại vừa giành được, Đảng kịp thời đúc rút
những bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học về phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, nội dung cụ thể là: Đánh giá đúng và
biết tập hợp, tổ chức lực lượng các giai cấp cách mạng, trong đó lấy
liên minh công nông làm nền tảng. Trên cơ sở đó, biết khơi dậy tinh thần
dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước
tiến bộ trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, phân hóa và cô lập
cao đội kẻ thù, chớp thời cơ tiến lên đánh bại chúng. Bài học kinh
nghiệm này được Đảng chắt lọc, vận dụng sáng tạo vào các chặng đường
cách mạng tiếp theo.
Gần 80 năm đã trôi qua, song cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 vẫn vẹn
nguyên tầm vóc và giá trị lịch sử, là niềm tự hào thôi thúc toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết, vượt
qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”./.
(TTXVN/Vietnam+)